Ở Trung quốc danh từ "Sinh đồ" chỉ những người từ nhà học, nhà hiệu tại các châu, huyện cử ra, Cống cử hay Hương cống không do nhà học, nhà hiệu ra, mà do trúng tuyển, trong khi ở Việt Nam, thi Hương trúng ba trường thì gọi là Sinh đồ (ông Đồ), sau gọi là Tú tài, đỗ cả bốn trường thì gọi là Hương cống (ông Cống), sau gọi là Cử nhân. 4) Chu Xán, Thị lang bộ Lễ nhà Thanh, sang sứ Việt Nam năm 1688, về ghi trong Sử giao ký sự : "Trường thi nước ấy không có nhà làm sẵn, sĩ tử phải ngồi trong lều phục xuống đất mà viết" (7). Mãi tới 1843, vua Thiệu Trị mới cho xây trường thi bằng gạch đầu tiên ở Thừa Thiên. Trước đó, mỗi khoa thi người ta xây trường sơ sài nhà tranh vách nứa để sau khi thi phá bỏ lấy đất trồng trọt, nhưng bởi là đất công, không ai chăm bón, nên cây cằn cỗi, đứng xa thấy cả khu trường thi nổi bật lên một mầu vàng úa giữa đám cây cối xanh tươi xung quanh. 5) Theo Lê Quý Đôn, triều đình ta " đối với những người thi đỗ đãi ngộ rất hậu, bổ dụng rất cao...so với việc đặt Khoa mục ở Trung quốc từ xưa đến nay chưa từng có ". Công hay tội ?Trong non một ngàn năm tự trị, Nho học và Khoa cử đã đào tạo được nhiều bậc khoa bảng ngoài sự nghiệp văn chương đều có công giúp nước, triều nào cũng có, xin tạm nêu ra : Đời Trần có Chu Văn An ( ?-1370) đỗ Tiến sĩ, giữ chức tư nghiệp (dạy ở Quốc Tử Giám, tức trường Đại học của ta), dạy Thái tử và con các Đại thần, dâng sớ " thất trảm " đòi chém 7 kẻ gian thần, vua không nghe, ông treo mũ từ quan. Sau được thờ trong Văn Miếu, tức là nơi thờ phụng Khổng Tử, ông tổ đạo Nho. Đời Hồ có Nguyễn Trãi (1380-1442) đỗ Thái Học Sinh (như Tiến sĩ). Sau khi giúp Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, ông viết bài "Bình Ngô Đại Cáo" được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước ta (8) và là tác giả nhiều thơ văn Hán Nôm còn lưu truyền. Đời Nguyễn có Nguyễn Công Trứ (1778-1859) đỗ Giải nguyên, thi Hương (1819), lập nhiều công lớn và đặc biệt khai khẩn đất hoang miền duyên hải Nam Định và Ninh Bình, lập ra hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn, và hai tổng Hoành Thu, Minh Nhất. Nhờ có một tổ chức giáo dục và Khoa cử sớm hoàn bị, nước Việt Nam xưa được coi là một nước văn hiến. Thế mà chỉ mới bị bãi bỏ có hơn 70 năm, ngày nay phần đông chúng ta không mấy ai biết đến Khoa cử nữa. Hoặc chúng ta mỉm cười chế giễu, hoặc chúng ta lên án nghiêm khắc. Trong Việt Nam quốc sử khảo Phan Bội Châu viết : "Trung quốc bỏ Khoa cử từ năm Canh Tý (1900)(9), Triều Tiên bỏ từ năm Giáp Ngọ (1894), đó là một việc nhơ nhớp duy chỉ nước ta còn có mà thôi" và "người ta mửa ra, mình lại nuốt vào". Vì sao cha ông ta lại quá nặng lời như vậy ? Có phải vì các vị quá phẫn uất trước thảm bại của nước nhà trong tay quân viễn chinh Pháp, mà giới lãnh đạo của ta lúc ấy do Khoa mục xuất thân, cho nên cha ông ta quy hết mọi tội cho Khoa cử đã đào tạo ra một lũ hủ Nho, mở miệng chỉ biết "chi, hồ, dã, giả", và một đám tham quan ô lại, chuyên bắt nạt dân đen, nhưng trước họng súng của Tây phương thì lại bó gối, cúi đầu, khiến cho lòng người chán nản, hết tin tưởng ở giai cấp lãnh đạo mà họ vẫn phục tùng xưa nay, do đó chúng ta phủ nhận luôn cả những khía cạnh tích cực của Khoa cử ? Đành rằng Khoa cử ngày một hủ bại, không thiết thực, chuộng hư văn, nhưng có thật lỗi ở Khoa cử hay ở người áp dụng nó ? Con dao nào dùng mãi cũng cùn, ta không biết mài lại cho nó sắc lại đổ lỗi cho dao xấu, đi mua dao khác thay thì suốt đời còn phải thay. Phan Huy Chú, trong Lịch Triều Hiến Chương, viết : "Xem việc thi cử hay hay dở thì biết nước thịnh hay suy ". Thời thịnh của Khoa cử là thời kẻ sĩ coi nó chỉ là phương tiện, tạo điều kiện cho mình thi thố tài năng giúp đời, đạo đức vẫn là chính, văn học chỉ là thứ yếu (" văn " phải được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả chính trị, mưu lược quân sự, kinh tế, triết học v.v...chứ không phải chỉ học làm thơ suông). Mục đích dạy " văn " là để đào tạo ra hạng người có kiến thức, có mưu trí, có tài ứng đối mẫn tiệp, biết cách cư xử khôn khéo trên chính trường ngoại giao. Đã đành ngày nay tin tưởng văn thơ có thể đuổi được giặc là chuyện buồn cười, song ta không nên quên rằng chính trị, ngoại giao thời xưa rất khác, văn học không phải là chuyện phù phiếm. Ngày nay chúng ta thường băn khoăn tự hỏi sao tổ tiên ta lại hồ đồ kén chọn người ra gánh vác việc nước bằng văn thơ ? Đọc lại những sự kiện lịch sử còn được lưu truyền thì thấy dù trong thời tự trị, ta vẫn bị Trung quốc đàn áp, nay đánh, mai doạ, tuỳ ta yếu hay mạnh. Họ lại thường dò xét xem ta có nhân tài hay không bằng cách đưa ra những câu đố hiểm hóc, những bài thơ oái oăm bắt giảng và họa lại, nếu ta hiểu và đối đáp trôi chảy, có khí phách, họ kết luận nên lui binh, cho hoà. Thí dụ thời nhà Mạc, quân Minh kéo sang định thôn tính nước ta. Tướng Mao Bá Ôn đóng quân ở cửa nam Quan, làm bài thơ "Cái bèo" đưa sang, ngụ ý khinh người Nam như cái bèo, phải một trận gió là tan. Sư Giáp Hải, đỗ Trạng nguyên, được cử ra làm thơ hoạ lại, hàm ý ta không sợ vì không thiếu nhân tài (dưới lớp bèo) "nào cá, nào rồng trong ấy ẩn", ta sẵn sàng ứng chiến. Bá Ôn đọc xong, rút quân về (10). Thư sinh không thể làm tướng thì làm sứ. Trạng Bùng Phùng Khắc Hoan (1528-1613) đi sứ cũng nhờ văn tài làm vua quan Tầu kính phục, không những khiến họ lui binh, mà nước ta từ đó thoát khỏi phải cống hiến nước giếng Trọng Thuỷ để rửa ngọc trai, và người bằng vàng đúc (11). Gần ta hơn, năm 1789, vua Quang Trung (1752-92), trước khi đại thắng quân Thanh đã tuyên bố : "Chỉ trong vòng mười ngày nữa thế nào ta cũng quét sạch quân Thanh, nhưng nước Thanh lớn hơn ta gấp mười lần, bị thua tất lấy làm thẹn, chắc phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ binh lửa liên miên thật không phải hạnh phúc cho dân, lòng ta sao nỡ ? Vì vậy, sau khi thắng trận phải khéo "dùng ngọn bút thay giáp binh" (lấy lời lẽ khéo léo để giảng hoà, đẩy lui quân địch). Việc ấy phi Ngô Thời Nhậm (1746-1803) không ai làm nổi. Đợi mươi năm sau, ta đủ thì giờ gây nuôi, nước giầu, dân mạnh thì ta có sợ gì nó ? " (12). Quang Trung thành công một phần nhờ tài biết dùng người. Quả nhiên sau này khi cầm đầu phái bộ ta sang Trung quốc, Ngô Thời Nhậm chứng tỏ Quang Trung không lầm người. Lúc tiến vào cửa Sứ quán, thấy hàng chữ đề "An Nam di sứ công quán" (Công quán của Sứ bộ xứ man di An Nam) Ngô Thời Nhậm không chịu vào, nói : "Ta không phải đại diện cho một xứ man di, nên không vào Sứ quán ấy". Quan nhà Thanh chữa rằng đối với Trung quốc thì tất cả đều là man di, mọi rợ hết, Ngô Thời Nhậm cười rằng : "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã (trâu tìm trâu nhập bọn, ngựa tìm ngựa nhập bọn). Phải chăng Đại quốc là mọi rợ khác ?". Nhà Thanh đành phải sửa lại cái biển thành "Nam quốc Sứ quan Công quán", lúc đó Ngô Thời Nhậm mới chịu dẫn đoàn ngoại giao của ta bước vào (13).
|
Phạm Phú Thứ (1820-1881), Phó Sứ (44 tuổi) Ông người Quảng-Nam, đỗ Tiến-sĩ năm 1843, năm 1863 giữ chức Tham tri bộ Lại, tùng nhị phẩm. Năm 1866 làm Hộ bộ Thượng-thư, năm 1876 Tổng đốc Hải Dương. Ông nổi tiếng vì có óc duy tân. | Ngụy Khắc Đản (1815-?, Bồi sứ (48 tuổi) Ông sinh ở Nghệ-An đỗ Cử-nhân năm 1841, Thám-hoa năm 1856. 1863 giữ chức Thị lang bộ Hình, tùng tam phẩm. |
Chính vua Minh Mệnh cũng nhận xét : "Văn cử nghiệp chỉ câu nệ những cái hủ sáo... học như thế trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi ?"
Một số người cho rằng Khoa cử bị bãi bỏ là do người Pháp cưỡng ép, thực ra giới trí thức của ta lúc ấy nhao nhao đòi cải tổ giáo dục và Khoa cử : Nguyễn Tường Tộ (1830-71), Phạm Phú Thứ (1820-81), Phan Bội Châu (1867-1940), Trần Quý Cáp (1870-1908) vv đều xin cải sửa, đặc biệt có Trần Bích San (1840-78) đỗ tới Tam Nguyên cũng xin bãi Khoa cử.
Phan Chu Trinh xuất thân Nho học, đỗ Tiến sĩ, mà lên án Hán học rất nặng lời : "Bất phế Hán tự, bất túc dĩ cứu Nam quốc !" (không bỏ chữ Hán thì không cứu được nước Nam). Phương Sơn sửa lại : "Bất chấn Hán học, bất túc dĩ cứu Nam quốc" (không chấn hưng Hán học thì không cứu được nước Nam). Khoa cử hủ bại, chúng tôi đồng ý về điều ấy, còn Hán học đã đào tạo ra biết bao anh hùng, liệt sĩ thì sao ta lại phế bỏ đi? (21).
Huỳnh Thúc Kháng (1876-1948) tuy kết tội Khoa cử, nhưng công nhận phần lớn lỗi ở người học đạo không đến nơi : "Mình nhận lối học Khoa cử cùng lối học Tống Nho làm lối học Khổng, Mạnh, chính là chỗ hư, chỗ hở của người Tầu mà mình bắt chước ". Rõ ràng Huỳnh Thúc Kháng chỉ phê bình lối học "tầm chương, trích cú" chứ không nói trùm lấp cả lối kén người bằng thi cử, và chính ông đã ca tụng cái học cùng Khoa cử đời Trần, nhìn nhận nó gần chánh đạo. Lại cũng chính ông nghiêm khắc lên án thái độ của một số người theo Tân học : Chẳng qua ngày trước nói Khổng, Mạnh thì ngày nay thay vào Hi lạp, La mã, Mạnh đức thư cưu (Montesquieu), Lư thoa (Rousseau), đổi cái "chi, hồ, dã, giả" bước sang "a, b, c, d".
Phan Chu Trinh còn gay gắt hơn : " Ngày trước học chữ Hán thì làm hủ Nho, ngày nay học Tây thì làm hủ Âu" (22).
Thế là thế nào ? Khoa cử đã bị bãi bỏ, chương trình cải cách đã được áp dụng, tại sao hai vị còn chưa vừa lòng ? - Ấy là vì cả hai đều nhận ra cái cái óc học để làm quan của ta vẫn còn, và cái óc ấy không hẳn là " độc quyền " của Hán học và Khoa cử.. Người ta thích làm quan để được giàu sang, trọng vọng. Xưa kia các bà, các cô có phải chỉ tham "cái bút, cái nghiên" suông đâu ? Tham là tham một bước lên quan khi "anh Đồ" thi đỗ đấy chứ. Bởi thế khi Khoa cử tàn, các cô bèn "xếp bút nghiên" lại, không phải để "lên đường tranh đấu" mà là để tuyên bố "Phi Cao đẳng bất thành phu phụ !"
Ta chê Khoa cử, thực ra là chê cái học thiếu thực dụng, chứ còn cách dùng thi cử để kén nhân tài thì ngày nay trên khắp thế giới vẫn phải dùng đến. Khoa cử tương đối công bằng và bình đẳng, ít ra cũng hơn chế độ "con vua thì lại làm vua". Trong Hồi ký, Paul Doumer nhắc đến trường hợp một người con nông dân được lấy đỗ trong khi một người khác con quan lại bị đánh trượt mặc dầu văn tài hai người suýt soát nhau, để chứng tỏ các quan trường không tư vị. Song Khoa cử chỉ tương đối công bằng, con nhà "xướng ca vô loài" chẳng hạn, không được đi thi. Đào Duy Từ thi Hội đỗ, chỉ vì cha là người cầm đầu đội nữ nhạc trong cung vua Lê mà bị đánh hỏng, ai dám bảo là công bằng ? Phụ nữ cũng không được phép bén mảng đến trường thi, thậm chí dự một buổi bình văn ở nhà Giám (Quốc Tử Giám) cũng bị đuổi ra (23) thì bình đẳng ở chỗ nào ?
Phong trào duy tân ngày một lan rộng, nhất là từ khi ta thấy Nhật trở nên hùng cường nhờ Âu hoá, thắng được quân đội Nga và Trung Hoa vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Ngày nay chúng ta bỏ hẳn Hán học, theo Tây học, song một số không ít đã nhận thấy đời sống Âu, Mỹ tuy đầy đủ tiện nghi, nhưng con người quay cuồng, phờ phạc vì công ăn việc làm, lúc nào cũng vội vã, sắp đặt thì giờ từng giây, từng phút, đến nỗi không biết gì đến sinh thú nữa. Đời sống vội vã, căng thẳng ấy chưa hẳn đã thích hợp với tâm hồn của ta. Mặt khác, cái học Đông phương quá chuộng thanh nhàn, coi rẻ đời sống vật chất nên người dân phải vất vả, lầm than, thiếu đủ thứ cũng không tạo được sự an lạc cho họ. Cho nên cuối cùng tất phải đi đến một giải pháp dung hoà.
Song dù giầu hay nghèo, dù sang hay hèn, phần đông dân ta đều trọng tình cảm và đạo đức, khiến người ngoại quốc phải kính trọng. Đấy là do ảnh hưởng một phần không nhỏ của Nho giáo đã thấm đến cốt tủy của ta, kể cả những người không trực tiếp học đạo. Nho học đã tạo ra một từng lớp sĩ phu có khí tiết, đức độ, rất có uy tín trong dân gian. Ngày nay phái Tân học tuy không biết đạo Nho nhưng vẫn được thừa hưởng cái uy tín của từng lớp trí thức trước để lại. Mà Nho học bành trướng được một phần là nhờ Khoa cử (Khoa cử kén người hỏi về đạo Nho vì đạo Nho dạy cách trị quốc, an dân, lại tôn quân quyền nên được vua chúa dùng làm quốc giáo) cho nên Khoa cử không hẳn chỉ có tội đối với quốc dân ta.
Hình ảnh về thi cử ngày xưa
(Trích từ trang web của anh Nguyễn Tấn Lộc có rất nhiều hình ảnh xưa: http://nguyentl.free.fr/index.htm)Giám khảo Trần Sĩ Trác
Ban giám khảo
Ban giám khảo
Lều chõng đi thi
Một cảnh thi năm 1895 (tranh vẽ)
Cảnh đi thi 1897
Nghe kế quả: Ngày kết quả, người đứng trên cao dùng loa để xướng danh người trúng tuyển (1897)
Chú thích
(1) - Connaissance du Việt-Nam, tr. 84
(2) - Văn hoá Đông sơn được coi là văn hoá cổ của ta, cực thịnh vào cuối thời các vua Hùng.
Chữ Việt cổ nếu có cũng không còn chứng tích.
Chữ Việt cổ nếu có cũng không còn chứng tích.
(3) - An-nam chí lược, tr. 251
(4) - An-nam chí lược, tr. 232-4
Theo Đào Duy Anh (Đất nước Việt-Nam qua các đời, tr. 69) hiện còn đền thờ Khương Công Phụ tại quê hương là làng Cẩm Chướng, huyện Yên Định (Thanh Hoá).
(5) - Đoàn Kết số 411
(6) - Ta thường dịch Tú tài thời xưa cũng là "bachelier", có lẽ chữ "sous-admissible" thích hợp hơn vì Tú tài xưa là những người thi Hương không đỗ, nhưng có chân trên bảng dự khuyết.
(7) - Kiến văn tiểu lục, tr. 113
(8) - Bài thơ "Nam quốc sơn hà, Nam đế cư" của Lý Thường Kiệt được coi là bản thứ nhất.
(9) - Trung quốc bỏ Khoa cử năm 1905 chứ không phải năm 1900.
Có lẽ Nguyễn Hữu Tiến đã lầm Trạng nguyên Giáp Hải đời Mạc với sư Giác Hải đời Lý Nhân Tông (Thiền Uyển Tập Anh ) ?
Bài thơ "Cái bèo" có thể cũng chỉ là một giai thoại bịa đặt.
Cương Mục XIV, 28-32 lại chép Mạc Đăng Dung, không đẩy lui được Mao Bá Ôn, xin hàng.
Lịch triều hiến chương chép Giáp Hải đỗ Đình nguyên khoa 1538.
Công dư tiệp ký -tập I, tr. 100 nói Giáp Hải đỗ Trạng nguyên khoa 1553, nhưng có con, không phải sư ; cũng không nói đến bài thơ "Cái bèo ".
- tập II, tr. 118, cho biết Mao Bá Ôn rút quân sau khi xem bài biểu xin hàng của Mặc Đăng Dung do Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu hay Trạng nguyên Trần Tất Văn viết.
(12) - Ngô gia văn phái, tr. 29
Hoàng Lê nhất thống chí, tr. 306
(13) - Nghìn xưa văn hiến, tr. 306
Phủ biên tạp lục, tr. 19-20, lại chép là Lê Quý Đôn chứ không phải Ngô Thì Nhậm.
(14) - Nguyễn Trường Tộ, tr. 74
(15) - Nguyễn Trường Tộ, tr. 304
(16) - Giai thoại làng Nho toàn tập, tr. 534
(17) - Ngô Thì Sĩ, tr. 212
(18) - Biên niên lịch sử Cổ Trung đại, tr. 230-3
(19) - Lê Quý Đôn, tr. 221 và 185
Câu này còn được chép trong Công dư tập ký tập III, tr. 86, viết khoảng 1755 tức là từ trước khi Lê Quý Đôn làm chủ khảo (1772).
Vũ trung tuỳ bút thì nói Trần Tiến chép câu này trong bài thi ứng chế (tr. 166).
(20) - Thơ Cao Bá Quát, tr. 22
(21) - Đông kinh nghĩa thục, tr. 81
(22) - Khổng học đăng, tr. 774-86
Sách tham khảo
Bùi Hạnh Cẩn, Lê Quý Dôn ; Hà Nội, 1985.
Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời. Hà Nội : KHXH, 1965. Paris : Đông Nam Á tái bản.
P. Huard & M. Durand, Connaissance du Vietnam, Paris, 1954.
Lãng Nhân, Giai thoại làng Nho toàn tập. Saigon : Nam chi tùng thư, 1966.
Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục. Hà Nội : Sử học, 1962. Dịch giả : Phạm Trọng Điềm.
Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục. Hà Nội : KHXH, 1977.
Lê Tắc, An-nam chí lược. Viện Đại học Huế, 1961.
Ngô Thì Chí, Hoàng Lê nhất thống chí. Bản dịch Ngô Tất Tố. Phong trào văn hoá tái bản, 1969.
Nguyễn Hiến Lê, Đông kinh nghĩa thục. Saigon, 1956. Xuân Thu tái bản ở Mỹ.
Nguyễn Hữu Tiến, "Nói về truyện các cụ ta đi sứ Tầu", Nam Phong số 92.
Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút. Hà Nội : Văn học, 1972. Paris : Đông Nam Á tái bản, 1985. Dịch giả : Nguyễn Hữu Tiến.
Phan Bội Châu, Khổng học đăng. Xuân thu tái bản ở Mỹ.
Phan Ngọc, " Chơi chữ trong câu đối Việt Nam ", Đoàn Kết số 411.
Trần Lê Văn, Ngọc Liêu, Chương Thâu, Nguyễn Tài Thu, Một số tác giả và tác phẩm trong Ngô gia văn phái. Hà Sơn Bình, 1960.
Trần Quốc Vượng, Giang Hà Vị, Nghìn xưa văn hiến, tập IV, Hà Nội, 1984.
Trần Thị Băng Thanh, Ngô Thì Sĩ, Hà Nội, 1987.
Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo. Hồ Chí Minh, 1988.
Vũ Phương Đề, Công dư tiệp ký. Saigon : Bộ Quốc gia Giáo dục, 1962. Dịch giả : Nguyễn Đình Diệm.
Thơ Cao Bá Quát. Hà Nội : Văn học, 1984.
Biên niên lịch sử Cổ Trung Đại. Hà Nội : KHXH, 1987.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Hà Nội : Văn Sử Địa. Tổ biên dịch : Phạm Trọng Điềm, Hoa Bằng, Trần Văn Giáp.
Châtenay-Malabry, tháng 8, 1989.
Tài liệu trích từ Khoa cử ở Việt Nam
Đã đăng Làng Văn, số 70, tháng 6/1990)
Tài liệu trích từ Khoa cử ở Việt Nam
Đã đăng Làng Văn, số 70, tháng 6/1990)
No comments:
Post a Comment